Một trong những lý do, khiến hoạt động buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp trở thành mối đe doạ lớn đối với đa dạng sinh học chính là việc mua bán thú nuôi hoang dã. Thực tế, sau việc môi trường sống ngoài tự nhiên của chúng bị phá huỷ, mua bán thú nuôi hoang dã là mối đe doạ trực tiếp lớn thứ hai đối với sự sinh tồn của các loài.
Nạn mua bán thú nuôi từ các loài khỉ cho tới cu li, từ chim tới cú, từ tắc kè cho tới rùa đang diễn ra hoành hành khiến cho quần thể nhiều loài động vật có nguồn gốc từ Đông Nam Á đang bị đe doạ.
Để làm vật nuôi, hoạt động mua bán động vật hoang dã tạo ra làn sóng khai thác không bền vững các loài động vật hoang dã trong tự nhiên - Theo tổ chức bảo tồn động vật hoang dã WWF-Việt Nam. Tổ chức WWF - Việt Nam nhấn mạnh: "Trên thực tế, hầu hết chúng được săn bắt từ tự nhiên, dù người ta biện luận rằng các con vật được gây nuôi trong môi trường nuôi nhốt. Người ta cũng lập luận rằng sẽ không ảnh hưởng tới quần thể của chúng ngoài tự nhiên nếu nuôi nhốt động vật hoang dã" - một lập luận đã được chứng minh là sai lầm.
WWF - Việt Nam cho biết: "Dẫn chứng cho quan điểm này, khoảng 1.3 triệu cá thể vẹt xám châu Phi đã bị săn bắt làm vật nuôi trong những thập kỷ từ năm 1975 đến 2005 và sự tuyệt chủng đối với loài này đang là nguy cơ lớn.
Năm 2012, các nhà sưu tầm đã phát hiện ra loài kỳ đà không tai của Malaysia đang bị rao bán làm vật nuôi trên các diễn đàn online. Số lượng quần thể của chúng hiện đang bị suy giảm trầm trọng do bị săn bắn nhiều.
Theo tổ chức WWF-Việt Nam: "Hiện nay, phần lớn con người đều bị lây truyền các căn bệnh mới từ động vật. Đặc biệt, người ta có thiên hướng sẽ thả các loài vật hoang dã trở lại tự nhiên do chúng trở thành gánh nặng đối với họ. Như thế, chúng có thể truyền bệnh cho con người và các loài bản địa và sẽ càng nguy hiểm hơn. Ngoài ra, mặc dù bị nuôi nhốt nhiều năm, nhưng do là loài hoang dã chưa được thuần phục nên chúng có thể gây ra nguy hiểm.
Có thể trẻ em sẽ bị gây bệnh truyền nhiễm từ vi khuẩn salmonella của rùa và một số loài bò sát, hầu hết các loài khỉ mang vi rút herpes B có thể gây chết người, một số bệnh sẽ lây truyền sang người từ vẹt và các loài chim khác, trong đó có bệnh cúm gia cầm. Có thể thấy, khác với vật nuôi, tình trạng nuôi nhốt sẽ khiến động vật hoang dã không được đáp ứng về những nhu cầu sinh học. Sẽ dễ dàng lây sang cho con người do nhiều vật nuôi hoang dã bị ủ mầm bệnh.
Một ví dụ điển hình chính là Rồng Komodo thường săn các loài động vật to lớn như hươu nai trong tự nhiên nên nó là một loài rất nguy hiểm. Chúng rất hung dữ, cần rất nhiều thức ăn, sống lâu, và ngay cả tấn công người cũng xảy ra nhiều lần. Điều đáng nói, sẽ bất hợp pháp nếu săn bắn và mua bán, sở hữu loài này.
Những sản phẩm có nguồn gốc hoang dã được sản xuất một cách bền vững thì WWF-Việt Nam khuyến khích mọi người mua và kêu gọi không sở hữu một số những loài hoang dã. Thú nuôi đã đạt tới mức độ đe doạ nghiêm trọng tới quần thể của chúng ngoài tự nhiên khi bị tác động bởi nạn buôn bán động vật hoang dã.
Sẽ gây ra những tổn thương đối với thể chất và tinh thần với động vật hoang dã nếu nuôi nhốt chúng. Rất nhiều trường hợp động vật khi được giải cứu sau nuôi nhốt đều trong tình trạng sức khoẻ tồi tệ. Sức khoẻ của các loài hoang dã chỉ được đảm bảo khi chúng được nuôi dưỡng trong điều kiện chuyên nghiệp, đầy đủ cơ sở vật chất. Sẽ có rất nhiều cá thể đồng loại khác, khi được mang về nuôi tại một nhà nào đó, có thể đã bị chết trên đường vận chuyển hoặc tại các chợ buôn bán - (Theo WWF-Việt Nam).
Vẫn sẽ gây ra nhiều mối đe doạ đối với quần thể của chúng ngoài tự nhiên, cho dù các loài có nguồn gốc hoang dã có thể sống trong môi trường nuôi nhốt, không mất nhiều công chăm sóc, nuôi giữ. Có rất nhiều loài đang bị đe doạ, trong khi xu hướng trong xã hội bây giờ cho rằng việc buôn bán thú nuôi từ hoang dã và sở hữu chúng là một việc hoàn toàn bình thường. Sẽ tạo lợi nhuận khổng lồ cho các hoạt động này khi buôn bán và săn bắt những loài này trong tự nhiên được thúc đẩy bởi tình trạng nuôi giữ động vật hoang dã ngày càng nhiều.
Không phải loài nào cũng được phép nuôi giữ, dù rằng có nhiều loài chim trở thành thú nuôi phổ biến. Đại bàng và các loài chim ăn thịt khác là những loài chim lớn đã quen sải cánh trong một không gian rộng lớn, nên rất khó để giữ trong môi trường nuôi nhốt. Sẽ rất tốn kém và gây khó khăn cho cả con người và động vật nếu nuôi dưỡng những loài này.
Không như các loài thuần dưỡng, động vật hoang dã luôn có vai trò sinh thái riêng. Quần thể của chúng sẽ quá nhỏ để thực hiện vai trò sinh thái của chúng, gần như tuyệt chủng về mặt sinh thái nếu số lượng quần thể một loài hoang dã giảm xuống một mức độ nhất định nào đó. Ví dụ, quần thể các loài khác được kiểm soát, vấn đề bệnh dịch tiềm năng được giải quyết nếu các loài là con mồi hoặc động vật săn mồi sẽ ăn các loài đã chết. Đây chính là lý do tại sao chúng cần được sống trong môi trường của chúng. Sẽ không phù hợp và ngăn cản nỗ lực bảo vệ chúng trong tự nhiên và môi trường sống của chúng nếu giữ chúng trong nhà làm động vật nuôi.